moitruongplus Điều quan ngại nhất là người dân vẫn dùng nước mưa chảy từ mái nhà tấm lợp Amiang để ăn uống, các tấm lợp vỡ vụn vẫn được dùng làm nền nhà, nền sân, rải đường đi, ngổn ngang cả đầu nguồn nước.

Vùng dân tộc thiểu số (DTTS) có 5.266 xã, trong đó có 1.957 xã khu vực III và 20.139 thôn, bản ngoài xã khu vực III thuộc diện đặc biệt khó khăn; tập trung ở 52 tỉnh, thành phố, đông nhất là khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Duyên hải Miền Trung, Tây Nam Bộ. Cơ cấu kinh tế vùng DTTS, MN và vùng KT-XH đặc biệt khó khăn chủ yếu vẫn là nông, lâm nghiệp (tỷ trọng nông, lâm nghiệp chiếm trên 50%), cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn thấp kém, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Đồng bào các DTTS được tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức rất thấp so với bình quân chung cả nước: còn hơn 21% người DTTS trên 15 tuổi chưa đọc thông viết thạo tiếng Việt; khoảng 30% học sinh DTTS chưa được đi học đúng độ tuổi; tỷ lệ khám bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế của người DTTS mới đạt 44,8%; gần 1/3 số hộ DTTS chưa được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh; hơn 15,3% số hộ gia đình người DTTS ở nhà tạm, đặc biệt có 14 dân tộc có tỷ lệ nhà ở tạm gần 50%; 2/3 số hộ DTTS chưa có nhà xí hợp vệ sinh.

Vùng DTTS đã và đang là "lõi nghèo của cả nước”: thu nhập bình quân đầu người của DTTS chỉ bằng khoảng 30% so với bình quân chung cả nước. Dân số DTTS chiếm 14,6% dân số cả nước nhưng tỷ lệ hộ nghèo chiếm 63% hộ nghèo của cả nước. Một số nhóm DTTS có tỷ lệ hộ nghèo đang ở mức rất cao lên đến 70 - 80% như: Ơ Đu, Co, Khơ Mú, Xinh Mun, La Ha, Kháng, Mông và Xơ Đăng.... 

Vùng DTTS chủ yếu là núi cao, biên giới, địa hình chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng kém nhất cả nước, xuất phát điểm rất thấp; biến đổi khí hậu, sự cố môi trường (Sạt lở đất, xâm nhập mặn ở đồng bằng Sông Cửu long, lũ ống, lũ quét ở các tỉnh Tây Bắc; hạn hán ở các tỉnh Tây Nguyên, duyên hải miền Trung... ) diễn ra nghiêm trọng và khó lường... Chi phí sản xuất, lưu thông hàng hóa lớn nên rất khó khăn để thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển KT-XH vùng DTTS&MN và vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển bền vững của vùng DTTS.

Chính vì đặc điểm trên mà với lợi thế giá rẻ, tấm lợp có chứa Amiang chảy dồn về vùng DTTS, theo khảo sát trực tiếp của Trung tâm HRC phối hợp Tổ chức Actionaid, Anpheda, tại huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng năm 2019, thì có 35% số hộ gia đình vẫn lợp nhà ở, 60% số hộ vẫn dùng tấm lợp này vào các công trình phụ của gia đình. Tại huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, khoảng 20% dùng lợp nhà, 35% lợp công trình phụ, tại tỉnh Lạng Sơn, các huyện vùng biên giới sử dụng lợp nhà 25%, 40% lợp các công trình phụ.

Khảo sát tại huyện Nho Quan, Ninh Bình là huyện miền núi thấp, có người Mường sinh sống, nhưng người dân có hiểu biết tác hại của Amiang nên chỉ có khoảng 20% số hộ lợp công trình phụ trợ.

Điều quan ngại nhất là người dân vẫn dùng nước mưa chảy từ mái nhà tấm lợp Amiang để ăn uống, các tấm lợp vỡ vụn vẫn được dùng làm nền nhà, nền sân, rải đường đi, ngổn ngang cả đầu nguồn nước.

Qua trao đổi trực tiếp với người dân, sau khi nghe tác hại của Amiang, họ đặt ra các câu hỏi:

- Tại sao tấm lợp này người dưới xuôi không dùng nữa mà đưa lên miền núi?

- Tại sao lại đưa tấm lợp này vào các chương trình trợ giúp nhân đạo cho miền núi?

- Bây giờ việc thu gom, xử lý như thế nào khi vỡ vụn, trôi nổi?

 - Lộ trình thay thế tại sao cứ kéo dài?

Trước những bức xúc của nhân dân, chúng tôi đang tạm hướng dẫn người dân đang dùng tấm lợp thì không được dùng nước từ mái nhà chảy xuống, kể cả gia súc, gia cầm; không cho nước mưa này chảy vào giếng và nguồn nước của làng bản, thu gom chôn lấp các tấm vỡ vụn ở khu vực xa nguồn nước, xa dân cư. Những gia đình có điều kiện thì thay thế, không dùng tấm lợp loại này.

Từ thực tế khảo sát ở cả vùng núi cao và vùng thấp, nông thôn miền xuôi, chúng tôi đưa ra mấy kết luận :

1. Dân ở vùng đô thị không dùng loại tấm lợp này, dân vùng nông thôn ở dưới xuôi chỉ còn khoảng 5% dùng lợp công trình phụ trợ. Như vậy 95% tấm lợp có chứa Amiang dồn về vùng DTTS.

Chỉ nơi dân trí thấp, nghèo, quá khó khăn mới phải sử dụng loại sản phẩm độc hại này.

2. Ngay tại các huyện vùng DTTS, thì những gia đình khá và trung bình cũng loại trừ dần tấm lợp này, như vậy đối tượng tập trung vào người DTTS nghèo khổ, mà chưa tìm ra giải pháp.

TS. Hoàng Xuân Lương, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người vùng Dân tộc thiểu số, Miền núi (HRC) phát biểu tham luận tại Hội thảo "Nâng cao nhận thức về mối nguy hại của amiăng đến sức khỏe đồng bào dân tộc thiểu số và vận động để loại trừ các bệnh liên quan đến amiăng tại Việt Nam " ngày 23/11/2021 tại Hà Nội

Từ cảnh báo của Tổ chức Y tế thế giới, Tổ chức Lao động Quốc tế, tổ chức chống ung thư, từ kết quả khảo sát của Bộ Y tế về các bệnh ung thư, nhất là ung thư Trung biểu mô, chúng tôi kiến nghị:

1. Phải đặt lợi ích sức khỏe của nhân dân lên trên hết, có chủ trương hỗ trợ các doanh nghiệp đang sản xuất tấm lợp có chứa Amiang chuyển đổi sản phẩm thay thế. Trợ giá cho những loại tấm lợp không sử dụng Amiang.

2. Có kế hoạch thu gom, xử lý sản phẩm có chứa Amiang, không để ảnh hưởng môi trường.

3. Không cho phép các chương trình chính sách dân tộc, các chương trình nhân đạo hỗ trợ tấm lợp này cho đồng bào.

4. Yêu cầu các Doanh ngiệp trong thời gian chưa chuyển đổi sản phẩm thì phải dán nhãn cảnh báo nguy cơ độc hại của tấm lợp có chứa Amiang, như dán nhãn thuốc lá.

5. Ngày 20/5/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 659/QĐ-TTg phê duyệt chương trình chăm sóc sức khỏe, phòng chống bệnh nghề nghiệp đã đưa các cơ sở sản xuất có sử dụng Amiang là môi trường Lao động độc hại, gọi là bệnh Amiang nghề nghiệp; phải cập nhật hồ sơ quốc gia đối với các bệnh liên quan đến Amiang tại các trung tâm ghi nhận ung thư trên toàn quốc.

- Nghị định số 09/2021/NĐ-CP ngày 09/2/2021 Quy định: Sử dụng nhóm Sepentine để sản xuất tấm lợp phải có xuất xứ rõ ràng; phải sản xuất trong các điều kiện, yêu cầu nghiêm ngặt, nồng độ sợi Amiang không vượt quá giới hạn cho phép; có các phương án xử lý phế phẩm, bụi, nước thải, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và môi trường.

- Khuyến khích sử dụng các loại sợi thay thế sợi Amiang trong sản xuất tấm lợp; Thủ tướng Chính phủ quy định lộ trình hạn chế sản xuất và sử dụng tấm lợp có sợi Amiang.

- Chính phủ nên xây dựng chính sách thay thế dần tấm lợp này ở vùng DTTS.

Hơn 20 năm qua, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) Tổ chức nghiên cứu ung thư Quốc tế (IARC) đã tập trung nhiều nhà khoa học nghiên cứu và tổ chức nhiều hội thảo Quốc tế để đi đến kết luận: Amiang, kể cả Amiang trắng là chất gây ung thư, nhất là ung thư phổi, thanh quản, buồng trứng, ung thư trung biểu mô và bệnh bụi phổi Amiang, vì vậy phải ngừng sử dụng tất cả các dạng Amiang, đó là cách thức hiệu quả nhất để loại trừ các căn bệnh liên quan đến Amiang.

Chúng tôi khẩn thiết đề nghị các cơ quan quan chức năng, hãy vì sức khỏe cộng đồng mà lắng nghe các kiến nghị của chúng tôi./.

Theo Môi trường và Đô thị

Các tin khác


Phú Thọ: Chủ động lắp các trạm quan trắc môi trường tự động

Theo Trưởng phòng kiểm soát ô nhiễm, Chi cục Bảo vệ Môi trường, việc lắp đặt hệ thống quan trắc môi trường tự động giúp doanh nghiệp “chứng minh” được nguồn thải ra môi trường đang ở mức độ cho phép.

Phân loại rác tại nguồn - nhìn từ góc độ vĩ mô

Phân loại chất thải tại nguồn chính là một trong những hành động cơ bản nhất, đơn giản nhất để bảo vệ môi trường.

Hành tinh có lẽ không thể chịu đựng thêm được nữa từ ô nhiễm nhựa và hóa chất

Các nhà hoạt động môi trường xót xa cảnh báo, hành tinh có lẽ không thể chịu đựng thêm được nữa từ ô nhiễm nhựa và ô nhiễm hóa chất.

Thanh Hoá: Bảo vệ môi trường Khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề - bài toán khó!

Công tác quản lý, thu gom, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường (BVMT) tại các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN), làng nghề trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá vẫn đang tồn tại nhiều bất cập.

Những phương pháp xử lý rác thải hiệu quả hiện nay

Rác thải cần được phân loại để tái chế hoặc xử lý nhiệt. Nếu không xử lý được bằng 2 phương pháp trên thì sẽ đưa vào bãi chôn lấp sau khi xử lý phù hợp.

Lá nhân tạo hút khí CO2 của Mỹ: Hiệu quả cao gấp 100 lần thiết bị hiện hành

Các kỹ sư tại Đại học Illinois Chicago ở Mỹ đã chế tạo một loại lá nhân tạo tiết kiệm chi phí có thể thu giữ khí CO2 cao hơn 100 lần so với các hệ thống hiện tại.